Trong không gian Kính_viễn_vọng

Với các quan sát thiên văn học, các kính viễn vọng quang học trên Trái Đất thường bị ảnh hưởng xấu của nhiễu loạn chiết suất khí quyển, chưa kể đến các hiện tượng khí tượng như mây, mưa, bụi. Với các kính thiên văn vô tuyến trên Trái Đất, sự nhiễu sóng vô tuyến do con người tạo ra là một trở ngại đáng kể. Thêm nữa, bầu khí quyển Trái Đất hấp thụ mạnh các tia hồng ngoại (do hơi nước), tử ngoại (do tầng ozon), tia X đến từ ngoài vũ trụ; khiến quan sát thiên văn tại các bước sóng này khó khăn.

Các trạm quan sát đặt trong không gian có thể giúp thoát khỏi ảnh hưởng trực tiếp của khí quyển Trái Đất. Nếu được đặt xa Trái Đất, như ở trên bề mặt Mặt Trăng nơi không bao giờ hướng về Trái Đất, các kính thiên văn vô tuyến còn được Mặt Trăng che chắn khỏi các nhiễu loạn vô tuyến đến từ Trái Đất.

Kính viễn vọng Hubble

Ảnh chụp kính viễn vọng không gian Hubble.

Kính viễn vọng Hubble, được nghiên cứu từ thập niên 1970 và phóng lên không gian năm 1990, là một bước đột phá quan trọng trong quan sát thiên văn trong phổ quang học, tử ngoại và hồng ngoại.

Nó có thể thu nhận ánh sáng từ vật thể cách xa 12 tỉ năm ánh sáng. Nó lần đầu tiên sử dụng công nghệ Multi-Anode Microchannel Array (MAMA) để ghi nhận tia tử ngoại nhưng loại trừ ánh sáng. Nó có sai số trong định hướng nhỏ tương đương với việc chiếu một tia laser đến đúng vào một đồng xu cách đó 320 km và giữ yên như thế.

Việc thiết kế kính này theo dạng mô-đun cho phép các phi hành gia tháo gỡ, thay thế hoặc sửa chữa từng mảng bộ phận dù họ không có chuyên môn sâu về các thiết bị. Trong một lần sửa, độ phân giải của Hubble đã được tăng lên gấp 10.

Hubble cung cấp khoảng 5-10 GB dữ liệu một ngày. Vài khám phá quan trọng do Hubble mang lại gồm có:* chi tiết sự va đập của sao chổi Shoemaker-Levy 9 vào Sao Mộc;